Linh Giác Dạ Quyền


Cơ thể con người là một khối hoàn thiện, kinh lạc, mạch được trải khắp toàn cơ thể là hệ thống truyền thông tin về não và đưa khí huyết nuôi cơ thể. Da, cơ, xương với các tạng phủ là những bộ phận chính tạo nên cơ thể và các hoạt động. Con người có rất nhiều giác quan, trong đó có xúc giác và cảm giác. VD: khi con người không có đèn trong đêm tối nhưng vẫn xác định được những đồ vật quen thuộc bằng cách sờ nắn bằng tay cũng có thể xác định được là vật gì, khi người ta bắt tay nhau thì cũng có thể cảm nhận được lực nặng nhẹ, nóng lạnh, yêu ghét.
Linh giác là tập luyện các động tác riêng biệt của đôi tay, quay tay, dẫn tay, lùa tay nhằm mục đích đánh thức cảm giác, xúc giác toàn thân nhờ đó mà người tập nghe biết và hiểu đường đi lại vận dụng lực tinh tế của gân, cơ, xương phát lực của đối phương định trước được di chuyển đòn thế của đối phương trong thôi thủ. Nhờ tập luyện chuyên cần, đúng cách mà dần dần cảm giác sinh ra từ cơ, gân, xương một cách đồng bộ. Khi đó người tập cảm nhận được vận động của đối phương nặng, nhẹ, cao, thấp, trùng, giãn, lên, xuống rồi bám dính, treo, dựa, nương dựa vào đối phương mà hóa giải hoặc tấn công như thôi thủ với các bóng của mình (không còn khoảng cách, không ta không địch, dĩ bất biến, ứng vạn biến).
Kình lực, nhiều người tập võ cũng chưa hiểu rõ về kình và lực, khi hiểu rõ người ta mới thấy có rất nhiều điểm khác nhau. Thật là đáng tiếc khi có người tập võ nhiều năm nhưng không hiểu rõ điều này
Lực thì xuất phát từ xương, thường được giữ lại ở vai và lưng nên không phát ra hết được. Kình xuất phát từ gân, đi tới tay chân để phát ra. Lực thì hữu hình, còn kình thì vô hình, lực thì vuông, còn kình thì tròn. Lực thì trệ rít, mà kình thì thông xuốt. Lực thì tán ra, còn kình thì tụ lại. Lực thì trôi nổi, còn kình thì trầm lặng. Qua đó, ta hiểu lực thì cùn, còn kình thì bén. Trong võ thuật người ta tập luyện rất nhiều các loại kình mang tính đặc trưng khác nhau. VD: trực lực, hoành lực, hư lực và thực lực. Trực lực thì hiển lộ. Hoành lực thì ẩn tàng. Hư lực thì cương. Thực lực thì nhu. Lúc chưa học hay người mới tập võ thì có tính trực lực mà hư đó là “chân lực”. Sau tập luyện một thời gian rồi thì lực có tính hoành mã thực đó là “kình lực”.
Trong kình lực phân biệt ra nhiều loại kình. VD: sang kình , công kình, băng kình, niêm kình. Người mới tập luyện chỉ có sang kình, công kình và băng kình. Sang kình thì quá thẳng nên khó lên xuống được, công kình thì quá chết nên khó biến hóa được, băng kình thì quá ngắn nên khó nối tiếp được. Ba loại kình trên là loại cường kình lộ hình, chính vì vậy mà không thể linh hoạt được. Người tập võ đến trình độ cao sau nhiều năm tập luyện đúng cách họ sẽ tự hình thành “niêm xảo kình” đó là loại kình không lộ trạng, mẫn tiệp, linh hoạt không dừng.Tay đến là kình phát, chưa trúng đích thì không có kình, trúng xong rồi cũng không có kình, kình chỉ phát đột biến khi trúng đích mới có kình. Nhanh như điện chớp, phát ra liền thu ngay “niêm ý ngưng thần” không phí một chút sức lực nào. Nói chung, dương kình thì dùng cương để thắng, âm kình thì dùng nhu để thắng như trận gió thoảng qua trăm hoa, cỏ phải cúi rạp, đó là công phu thượng thừa của người tập võ.
Linh giác là phương pháp tập luyện mà ở đó người tập phải phối hợp hài hòa giữa quyền thuật với linh cảm của cơ thể, kình lực thành một thể thống nhất nhuần nhuyễn, thông suốt khi vận dụng thôi thủ thì mềm mại, uyển chuyển nhưng mạnh mẽ như trận lũ nguồn, cuốn phăng tất cả những gì gặp trên đường đi.
Kình lực được phân ra nhiều loại. VD: triêm niêm kình, linh kình, đổng kình, hóa kình…..mỗi loại kình đều có đặc điểm riêng và tính chuyên biệt riêng trong võ thuật. Người rèn luyện võ thuật khi tập luyện thành công đem áp dụng vào bản thân mới hiểu được cái ảo diệu của nó trong quyền thuật. Tuy rằng khi đạt đến mức độ thành công chỉ chú ý chứ không chú trọng kình. Người mới học muốn tiến bộ nhanh thì phải đi qua cửa này không đốt cháy giai đoạn, từ từ luyện kình mà đi lên thành công vậy. Nếu không biết dùng kình thì không biết công phu vận khí. Không biết công phu luyện khí thì không biết rõ chân ý của quyền thuật do đó dùng kình chính là cương lĩnh sơ bộ cho việc học quyền thuật.
Có rất nhiều loại kình để phối hợp với niêm dính bộ pháp mà thôi thủ trong tập luyện, như triêm niêm kình (triêm thấm, niêm dính) là loại kình thông suốt linh hoạt không bao giờ dứt không dời là nội kình căn bản tối cần thiết nhất nhưng phải luyện tập lâu dài nhờ thôi thủ mà có được. Người tập võ khi mới rèn luyện hai tay chưa lường được cảm giác, tay thô cứng như khúc gỗ sau nhiều ngày tập luyện các phương pháp quay tay, dẫn tay, nghe tay dần dần bàn tay, cánh tay, ngực, lưng rồi toàn thân đều nảy sinh cảm giác. Khi có cảm giác tốt rồi mới thấm dính được. có thấm dính rồi mới có thể bám vào kẻ địch nương theo kẻ địch công thủ rồi chế ngự kẻ địch. Loại kình này phải có bậc thầy cao minh truyền thụ hàng ngày quay tay lùa tay, chạy tay thôi thủ linh dính mới lĩnh hội được.
Tóm lại, niêm dính – linh giác hay linh kình không phải là nghe bằng tai mà phải bằng cảm giác của da, thịt toàn thân cho nên phải luyện triêm niêm kình rồi mới có thể niệm “linh” được. linh giác, linh kình trong quyền thuật không thể dùng lực thô bạo khí ô trọc mà nghe được, trái lại người tập người rèn luyện phải buông lỏng cơ thể vai trầm, ngực ngậm, thượng hư, hạ thực, tĩnh tâm, niêm ý, niêm khí, ngưng thần để linh.
Đổng kình là hiểu biết các đường đi thôi thủ của kè thù, kẻ địch, phương pháp này phải do chân sư truyền thụ và tập một thời gian dài mới hiểu được. Có linh rồi mới có đổng, linh không chuẩn xác thì đổng không toàn diện được. Nếu chưa biết đổng kình thì dễ phạm phải các sai phạm như cao quá, lệch bên hoặc là bỏ mất không dính đối lực và chống cự, nếu biết đổng kình không chính xác thì phạm phải đứt đoạn, kình không thông suốt hay kết dính trùm, cúi quá hay ngửa ra quá. Người rèn luyện phải đạt tới cảnh giới hư không tiến thoái xoay chuyển tự nhiên tùy theo tâm mới có thể đổng kình một cách chân chính được. Khi có đổng kình chân chính, thực thụ mới đạt tới các hiệu quả trong thôi thủ như là co lại duỗi ra tĩnh tụ khai hợp thăng giáng, hài hòa tức là đã nhập vào lĩnh vực thần linh rồi. Tập đến cảnh giới này trong cơ thể người tập được xoay ngược lại, loại bỏ phần âm điềm đạm không vọng đọng, người ta thường gọi là thủy hỏa ký tế, kiền khôn giao phối, tính mệnh bảo chân. Ở người tập trong cảm giác biến hóa khôn hình dung (không nghĩ tới đòn thế quyền pháp trước sau đánh gì, phòng gì mà toàn bộ thân pháp, thủ pháp nã pháp tùy nghi nghinh chiến, tùy nghi thôi thủ) không suy nghĩ trước đó là trình độ đại thành của quyền thuật.
Tẩu kình: trong linh giác tẩu kình là phương pháp tập quan trọng thường để tránh né trực lực, đòn tấn công của đối phương, tránh không để lọt vào tình thế giằng co đối kháng với đối phương. Tẩu kình thường do đổng kình mà có, không có đổng làm sao có thể có tẩu? Trong thôi thủ khi cảm thấy địch trầm trọng liền biến ra hư. VD: địch đè nặng một bên(thiên trọng) liền buông lỏng bên kia(thiên tung) cơ thể để hóa địch theo tức là tùy theo hướng của địch tấn công mà làm cho đòn và lực của địch trôi đi ra khoảng không, không có chút đề kháng gì. Phương pháp này làm cho địch vô cùng bối rối vì có lực mạnh đến đâu cũng bị rơi vào khoảng trống vô định mà tất cả các đòn thế đều không có tác dụng gì. Then chốt của phương pháp này là phải dựa vào sự vận chuyển tinh tế của đùi và eo lưng.
Hóa kình: là một phần tập luyện trong linh giác hóa kình thường từ do niêm kình với tẩy kình kết hợp mà thành, khi giao thủ không bỏ mất cũng không giằng co tùy theo sự cảm biến mà biến hóa khôn lường nhưng điểm yếu của hóa kình là do ta ở thế thuận mà địch đang ở thế nghịch lúc đó dù địch có ngàn cân cũng không sao sử dụng được không dùng tay hay vai để hóa mà dùng eo đùi vận chuyển để hóa. Việc hóa kình không nên sớm quá hay trễ quá vì sớm quá tất kình của địch chưa đến chẳng có gì để hóa, nếu mà trễ quá thì nó đã đến trước rồi không kịp hóa nữa thật vô ích. Trong giao thủ phải hóa kình lực của địch xong rồi mới phát kình đánh địch được.
Dẫn kình: tức là trong thôi thủ địch được ta dẫn đến thế phải động hoặc địch tấn công bị ta dẫn vào lộ tuyến của ta định trước trong linh giác thì hóa kình dẫn kình có phần khó hơn nhiều. Đại thể là thế tấn công của đối phương ít khi lọt vào ý muốn của ta cho nên ta phải dùng dẫn kình mà đưa đối phương vào. Phương pháp dẫn là phải hóa kình của đối phương cho đến sắp tận nhưng chưa tận nhờ đó mới có thể dẫn kình đó vào đích ngắm của ta được. trong linh giác phép dẫn kình phải được chuyên luyện nhiều năm vì phương pháp này không chỉ dùng tay mà dẫn được còn phải đồng thời dùng cả thân pháp yếu pháp bộ pháp để dẫn vậy.
Niêm dính – Linh giác được sử dụng trong thôi thủ đòi hỏi sự linh hoạt kết hợp nhuần nhuyễn đan xen nhiều công pháp mới đạt kết quả cao trong đó có phương pháp dùng kình lực tấn công địch gọi là nã kình. Để tập được phương pháp nã kình phải kết hợp được giữa nã kình với dẫn kình nó là một phương pháp khó cần được chuyên luyện nhiều năm. Nã không được tất là phát kình không được, phát kình không trúng đích là nã không chuẩn xác. Như vậy có thể nói nã là tiên phong của phát kình. Trong khi nã phải để cho thế của địch bị đình trệ lúc đó ý của ta mới nhắm tới liền phát kình nhắm vào đích ngắm của ta nếu thực hiện đúng thì không bao giờ không thành công hoặc không trúng đích. Kỹ thuật nã là động tác phải nhẹ nhàng nếu nặng nề ắt đối phương phát hiện trước dễ thoát thân. Cái khó là ở chỗ giữa lúc sắp nã và lúc nã vừa đến thân địch còn sau khi nã xong thì địch không thể nào thoát được. thường phải nã vào các khớp của địch như là cổ tay, trỏ, vai….còn ở những chỗ khác địch rất dễ thoát thân. Trong khi nã hai tay người phải giống như cái cân hễ cân vật nặng thì đẩy quả cân ra ngoài đòn, cân nhẹ thì đẩy vào trong. Trong lúc nã hoặc tấn công phải chú ý giữ trọng tâm của ta để ổn định đầu gối không nên vượt quá mũi chân, vĩ lư phải trung chính then chốt là ở eo đùi và không dùng lực để nã mà hoàn toàn dùng ý trí để nã.

Nguồn: Sưu Tầm